một trà một rượu một đàn bà

Chắc quý bạn cũng đồng ý với Lâm Ngữ Đường viết trong cuốn The Importance of Living xuất bản năm 1937 (Ái hữu lão thành Nguyễn Hiến Lê đã dịch ra từ bản dịch tiếng Pháp là Một Nếp Sống Đẹp thì phải) là người xưa đã trèo non, lặn suối, để đi đến nhà bạn, thăm nhau và uống với nhau một tách trà, hay một ly rượu để đàm đạo, rồi lại lội suối hay đội mưa trở về. "Một trà, một rượu, một bọn bà. Ba loại lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được vật dụng nào hay lắp thêm nấy. Hoạ chăng chừa rượu cùng với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về hầu như thứ cơ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui: 1- MỘT TRÀ: " Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta" Thiên hạ ví hoa với mỹ nhân đã nhiều, ông Tú làng Vị Xuyên lại Nào pha một ấm trà. Chuyện vặt. Thì mọi người vẫn thưởng trà đó thôi. Cả làng cả nước này uống trà có gì phải bàn. "Một trà một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ta". Hại đây chính là hại sức khỏe. Cái hại về thần kinh và hại về tiêu hóa "Một trà, một rượu, một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được thứ nào hay thứ nấy. Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà." Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui: 1- MỘT TRÀ: Chẳng được bao lâu. Site De Rencontre En Algerie Sans Inscription. Văn thư lưu trữ mở Wikisource Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếmBa cái lăng nhăng của Trần Tế Xương Một trà một rượu một đàn bà, Ba cái lăng nhăng nó quấy ta, Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà. Lấy từ “ Thể loại Thơ Việt NamThất ngôn tứ tuyệt Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta Trai không có rượu cờ sao dựng Gái muốn thêm canh phải chuốc trà Canh khuya ôm ấp cái đàn…bà Gảy khúc du dương bạn với ta Sáu nốt nào hay hơn nốt ấy Chùng dây trăng lặn cũng tàn trà Hồ Văn Thiện Chẳng bỏ được Có thú nào hơn…với các bà Đắm say trong suốt cuộc đời ta Rượu ngon hưng phấn lên cao độ Chẳng bỏ được đâu kể cả trà! Lê Trường Hưởng Trót rồi Đã nghiện trà thơm lại thích bà Thêm ly rượu đế mới là ta Loanh quanh tính toán so đo mãi Hết rượu quay ra lại vẫn trà ! Ngô Quốc Lộc Vô đề Một lão say thơ với một bà Trà ngon rượu hũ háu bên ta Phải chăng chưa đủ còn hay nữa Mãi thích tình riêng, chút tửu tràPhó Mộc Đủ Tam Khoanh Đương nhiên khoái nhất vẫn là bà Rượu thuốc cũng là thú của ta Hai thứ dùng e gan phổi hỏng Cho nên đều đặn phải kèm trà Giang Thanh Hà Tam Hạp Tách nóng, bình thơm thêm có bà Còn gì hơn nữa cái đời ta? Cả ba đều gợi lên thi hứng Tình đắm rượu say lại ngấm trà. Chanh Rhum Vẫn ung dung Sao cứ quẩn quanh với một bà Thế thì thua đứt lão gần ta Cụ vơ tay trái thêm hai mớ Mà vẫn say sưa Rượu với Trà Mất Hút Khoảnh khắc quay ra mất hút bà Trăm phần gã ấy nó lừa ta Rủ đi đánh chén rồi bay biến chai rượu nằm trơ cạnh ấm trà Trốn hay là Chánh Yên mời họa chính thơ bà Thiền Hộ đâu cần ngó đến ta Về tận Tú Xương cùng Nguyễn Khuyến Quanh vào chén rượu với chung trà Chiến Anh Không đề Chánh Yên một lúc túm ba bà Đâu có thì giờ ngó đến ta Đành phải đi tìm nhà cụ Tú May ra còn được một tuần trà Thiền Hộ Hoan lạc Chẳng Vương mình cũng thích dăm bà Ấp lạnh, quạt nồng chiều chuộng ta Hủ hỷ cầm kỳ đêm chuốc rượu Hoan ca thi họa ngày nâng trà! Gió... Tam nhiễm Sắc nhiễm đầu tiên bởi quí bà Tửu hương còn đắm hại đời ta Nhất nhì đeo phải đà gian khổ Tam vẫn luôn đây ngụm tách trà Nam Khánh Luật đời Nửa cuộc đời là “ông hoặc bà” Thú vui đệ nhất Chúa ban ta. Âm dương hòa hợp thành viên mãn Muốn có thơ thêm thuốc - rượu - trà ! Ngũ vị Tú Xương nịnh vợ gọi là Bà “Nuôi đủ năm con với một ta” 1 . Thơ phú,cô đầu ông thích tuốt Lẽ nào từ vị rượu và trà ? Nửa mất... khó thay Chưa mãn cuộc đời đã mất “bà” Ông xanh sao nỡ hại riêng ta. Đã chừa thuốc lá từ lâu lắm Còn chút niềm vui THƠ, rượu, trà ! Phạm Minh Khôi Huy Phương Tôi không biết uống rượu nhưng khi ai có lòng đem cho mình một chai rượu quý, tôi vẫn dành để biếu lại cho một người bạn thân uống được rượu, mà uống một cách thông minh. Người xưa phong lưu thì có cầm, kỳ, thi, tửu. Nhà thơ Tú Xương cũng không qua cảnh “một trà, một rượu, một đàn bà.” Rượu luôn luôn đi với thơ, dễ chừng không có rượu, cõi đời không có thơ, bầu rượu, túi thơ. Có bạn bè thì phải có rượu “chén chú, chén anh.” Rượu ngon phải có bạn hiền! Một trong những cái “chẳng cũng sướng sao” của Kim Thánh Thán là gặp lúc bạn đến nhà mà đủ tiền mua rượu đãi bạn “…Người bạn xa mười năm, thình lình đến vào chiều hôm. Mở cửa chào xong, chẳng kịp hỏi đi thuyền hay đi bộ, cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường… Hàn huyên qua loa, liền chạy mau vào nhà trong, sẽ hỏi vợ “Mình có được như bà vợ Tô Đông Pha, sẵn có rượu để dành không?” Vợ cười, rút cành trâm vàng đưa cho. Tính ra có thể đãi khách được ba ngày… Chẳng cũng sướng sao!” Trong tình yêu cũng thế “Em ơi! Lửa tắt, bình khô rượu, Đời vắng em rồi, say với ai?”VHC. Trong lễ cưới hỏi của người Việt thì có khay rượu đi đầu, “giúp em một thúng xôi vò, hai con lợn béo, một vò rượu tăm!” Đôi tân lang và tân giai nhân cùng nhau uống rượu làm lễ giao bôi, họ hàng thì nâng ly rượu mừng cho đôi trẻ. Khi vui uống ly rượu mừng, lúc buồn mượn ly rượu giải sầu. Có ly rượu mừng và cũng có ly rượu phạt. Trong Tam Quốc Chí thì “Quan Vũ lên ngựa ra chém Hoa Hùng, chạy về chén rượu uống dở vẫn còn nóng!” Người Trung Hoa, người Việt thì đám cưới cũng rượu, đám tang cũng rượu. Không có rượu, coi như lễ nghĩa không thành Vô tửu bất thành lễ. Trong nhiều nghi lễ khác cũng cần có rượu, đặc biệt là trong các nghi lễ cưới hỏi. Trong phong tục cưới hỏi của người Việt, khay trầu rượu luôn được đi hàng đầu. Như vậy thì chúng ta cũng có thể nói rượu là một nét văn hóa của người Việt. Tai hại của rượu thì ai cũng đã thấy. Ngay ở Hoa Kỳ, tệ nạn nghiện rượu từng là thảm kịch trong gia đình của Tổng Thống Donald Trump. Người anh của ông là Fred Jr. đã qua đời vào năm 1981, vì nghiện rượu. Gia đình Ông Trump không ai uống rượu, năm ngoái 2018, ông đã tặng $100,000 trích từ tiền lương của ông trong quý thứ ba của năm cho cơ quan “National Institute on Alcohol Abuse and Alcoholism.” Và ngày nay, thế giới đang báo động vì tai nạn uống rượu lái xe gây chết người. Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO nói rượu là thủ phạm đứng hạng 3 gây ra số người chết và thương tật nhiều nhất trên thế giới, ước chừng có triệu người chết mỗi năm. Ở Hoa Kỳ, nghiên cứu cũng cho thấy rằng 5 thành phố tại California, như Vista, Hemet, Delano, Murrieta, và Pittsburg, việc tử vong do DUI Driving under the influence – Lái xe dưới sự ảnh hưởng của rượu hay ma túy, gia tăng từ 140 tới 700% từ năm 2012 tới 2017. Trong thời gian 5 năm, hơn 5,500 người chết từ tai nạn do say rượu lái xe tại California. Nhưng ở Mỹ có luật lệ nghiêm minh, cơ quan cảnh sát cũng làm việc đứng đắn, dân trí cao nên rượu không phải chuyện “quốc nạn” như ở đất nước Việt Nam. Ở Việt Nam, chỉ tính trong một năm 2016, ước tính có 79,000 người chết vì uống rượu bia, và hàng trăm ngàn người khác phải vào bệnh viện vì các bệnh liên quan đến rượu như gan, tim mạch, ung thư, đột quỵ. Việt Nam được xem là một “cường quốc” về rượu. WHO cho biết người Việt tiêu thụ trung bình một người trên 15 tuổi tiêu thụ lít cồn nguyên chất trong năm 2016, trong khi các quốc gia trong khu vực sử dụng ít hơn nhiều như ở Mông Cổ là lít, Trung Quốc là lít, Campuchia là lít, Philippine là lít và Singapore chỉ có 2 lít. Đàn ông Việt Nam sử dụng rượu bia càng ngày càng tăng, cứ 100 người đàn ông thì có 77% người uống rượu bia, gia tăng từ năm 2015 so với năm 2010 là 15%. Rượu “góp mặt” trong 70% số vụ phạm pháp hình sự ở nhóm dưới 30 tuổi giết người, hiếp dâm… Mỗi năm có, 4,800 người tử vong do tai nạn giao thông vì say rượu. Dịp Tết Kỷ Hợi vừa qua có 60% trong số 500 ca cấp cứu nhập viện liên quan đến rượu bia. Ước tính thiệt hại kinh tế do rượu bia, mỗi năm Việt Nam thiệt hại khoảng 65,000 tỉ đồng khoảng $ tỷ. Bây giờ rượu không còn “nhấp” hay “nhâm nhi” mà phải “nhậu,” “nốc,” “dzô!” Uống rượu ngày nay không còn là cái thú tao nhã, phong lưu nữa mà đã trở thành một tệ nạn, lan tràn khắp đất nước. Đám cưới phải nhậu, đám ma cũng nhậu, mừng nhà mới, con tốt nghiệp cũng nhậu, lên lương, lên chức cũng nhậu, thảo luận làm ăn, ký khế ước cũng nhậu, mừng vô đảng viên cũng nhậu. Ngày thường nhậu, cuối tuần nhậu nhiều hơn. Rượu vào lời ra, nôn mửa, la lối, đánh giết nhau, vật vã trên vỉa hè, chẳng còn một chút gì gọi là nhân cách. Và theo quan niệm từ xưa, đàn ông, nam nhi thì phải biết uống rượu. “Nam vô tửu, như kỳ vô phong.” Đàn ông không rượu, như lá cờ không có gió. Nhậu mới là đàn ông, nhậu mới là chịu chơi. Xã hội ngày nay, thằng đàn ông không rượu là đồ hèn. Cởi quần mặc váy đi anh,Về cho con bú, cơm canh lau nhà.. Buổi chiều tan sở, ra thẳng quán nhậu. Không nhậu với thủ trưởng, đồng nghiệp thì đừng hòng có phe cánh hay sống còn. Chuyện xưa kể, ngày xưa có một chàng trai bị quỷ đòi mạng. Anh chàng van xin tha tội. Quỉ ra điều kiện, phải làm ba việc, uống rượu, đốt nhà hay giết mẹ! Đốt nhà, giết mẹ thì không nỡ, chàng trai chọn điều kiện uống rượu. Nhưng khi rượu vào mất trí khôn, chàng trai đốt nhà rồi giết luôn mẹ. Ngày nay cứ mở Google ra, đánh mấy chữ “Say rượu, giết Mẹ,” sẽ thấy hiện lên hàng trăm trường hợp đi nhậu say rượu về, con trai cầm dao giết mẹ, hay cha giết cả nhà, bạn bè đâm nhau lòi ruột. Trong chuyện Tam Quốc, có chuyện Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi, ba người tâm đầu ý hợp, cùng nhau uống mấy vò rượu mà kết bái huynh đệ tại vườn đào. Ngày nay ở Việt Nam có chuyện hai anh em kết nghĩa, sau bữa nhậu say túy lúy, ông anh nham nhở sờ vào vùng kín của ông em, khiến người này tức giận vác dao chém chết ông anh kết nghĩa. Trong văn chương thấy người xưa uống rượu có phong cách, chừng mực, uống rượu như là một thứ nghệ thuật, đắp bồi cho giá trị cuộc sống. Ngày nay, Việt Nam là một nước nghèo, lại mang tiếng là đứng đầu vì rượu chè, tai nạn giao thông, ung thư, án mạng, hiếp dâm, phá thai…con người mất nhân cách, lâm cảnh tù đày… Nói đến chuyện say rượu, phải nói đến nhân vật Chí Phèo. Nhà văn Nam Cao đã kết án đanh thép cái xã hội phong kiến, thực dân tàn bạo, tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, vùi dập cả đạo đức, nhân tính. Trong “Bản án chế độ thực dân Pháp,” viết bằng tiếng Pháp và được in năm 1925-1926 trên một tờ báo của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc cho rằng Pháp đầu độc dân Việt Nam, bằng cách bắt họ uống rượu theo tiêu chuẩn đầu người ? Nhưng cứ nhìn con số người chết vì rượu, và những tệ nạn xã hội do rượu gây ra dưới thế hệ Hồ Chí Minh, cái thời mà Tổng Bí Thư đã ca tụng “đất nước ta chưa bao giờ có được như ngày hôm nay,” thì cái chế độ này còn độc ác và gây tội lỗi cho dân tộc Việt Nam gấp trăm lần thời nô lệ! Quốc Hội CSVN hiện nay đang dùng dằng chưa muốn đem việc hạn chế rượu thành luật, vì rượu là “nền văn hóa thế giới,” thậm chí dẫn cả thơ của Hồ Chí Minh, cho rằng “chỉ khi bị tước đoạt tự do mới không được uống rượu!” Trong tù không rượu cũng không hoa! Để giữ gìn sức khỏe, Lãn Ông đã khuyên “bán dạ tam bôi tửu, bình minh nhất trản trà…”Nửa đêm ba chén rượu, sáng sớm một tuần trà, mỗi ngày cứ như thế, thầy thuốc không đến nhà. Chuyện này không chắc lắm, nhưng “nốc” rượu như Việt Nam ngày nay, bác sĩ cũng chạy xa, xe cứu thương đến nhà, và cuối cùng, đạo tì khiêng xác ra… Nguồn Có thể theo bút pháp trào phúng mà trong bài thơ “Ba cái lăng nhăng”, nhà thơ Tú Xương nói chơi chứ không phải nói thật “Một trà, một rượu, một đàn bà/ Ba cái lăng nhăng nó quấy ta/ Chừa được cái nào hay cái nấy”. Ba câu này là kể, kể những cái “nhiêu khê” theo sắc thái hài hước. Người đọc băn khoăn hào hứng chờ nhà thơ “chừa” cái gì..., thì bất ngờ, là chừa cái sự “không nói ra” “Có chăng chừa rượu với chừa trà”. Thế là cả “ba cái” chưa hẳn đều “lăng nhăng”!? Tự trào Nguyễn Khuyến! Không chỉ là “nghệ thuật băm thịt gà”!? Bài viết xin chọn chứng minh “trà” như một chủ đề trong văn học nước ta. Theo học giả Đào Duy Anh, trong chữ Hán, “trà” là chè nói chung, nhưng trong tiếng Việt thì “trà” là chè cao cấp nên có “chè tười” lá chè tươi mà không có “trà tươi”. Thời trung đại, ngoài thơ Thiền, trà được nói nhiều trong thơ Nguyễn Trãi. Bài “Ngẫu thành” là cảnh sinh hoạt “Mây tỏa đầy nhà, mai đốt bách/ Tùng reo quanh gối, tối đun trà”. Sáng sớm mai đốt gỗ bách sưởi ấm nên có cảm giác “mây tỏa đầy nhà”. Buổi chiều có tiếng cây tùng reo quanh gối. Tối đến nổi lửa đun trà. Trong bài “Mạn hứng” là cảnh “Quét tuyết đun trà bên trúc ổ/ Đốt hương đọc sách dưới mái hiên”. Trong một bài thơ chữ Hán khác ông nói lấy chè trà làm phương tiện “rửa sạch lòng trần”. Ước mơ bình dị của bậc đại nhân, đại trí ấy lại chỉ là “Bao giờ làm được nhà dưới ngọn núi mây/ Để múc nước khe nấu chè và gối đá ngủ” Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác. Đấy là trong “Ức Trai thi tập”, thơ chữ Hán, trong thơ Nôm “Quốc âm thi tập”, chè trà được nói tới nhiều hơn. Chùm bài “Ngôn chí” có những câu “Cởi tục chè thường pha nước tuyết/ Tìm thanh trong vắt tịn chè mai”. “Tịn” tiếng cổ, có nghĩa là “tận”, là hết. “Tịn chè mai” là hết chè hồng mai rồi nên phải thay chè bằng “nước tuyết”, ý nói cuộc sống nghèo lấy cái thanh cao làm trọng. Lại có câu “Chè mai đêm nguyệt dậy xem bóng” tức ban đêm dậy uống chè hồng mai thưởng trăng. Trong chùm bài “Thuật hứng” có hai lần nói tới “chè tiên” “Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về” và “Chè tiên nước ghín bầu in nguyệt”. “Chè tiên” là chè gì? Theo chú giải của Đào Duy Anh thì “tiên” nghĩa là nấu, “chè tiên” là đun, nấu nước chè trà. Chữ “tiên” nghĩa là nấu này đến nay hầu như không còn dùng. “Ghín” từ cổ nghĩa là gánh. Câu thơ tả cảnh gánh nước đêm về nấu chè nên ánh trăng in vào thùng, gánh nước cũng như gánh cả trăng nguyệt đeo về! Đối ẩm! Như vậy Nguyễn Trãi ưa dùng chè và thường dùng vào buổi tối, ban đêm. Khác với tập quán sau này của nhiều người uống chè vào buổi sớm Bình minh sổ chản trà. Hai câu quen thuộc của ông nói về chè, nhiều người thuộc “Say mùi đạo, chè ba chén/ Tả lòng phiền, thơ bốn câu” “Thuật hứng 13”. Ở đây là một quan niệm mượn thú uống chè trà để suy ngẫm về đời, về “đạo” có thể hiểu là đạo lý, đạo trời, đạo nhân.... Liệu có khỏi suy diễn khi coi Nguyễn Trãi là người đầu tiên ở xứ ta nâng thú uống trà lên thành “đạo” trà đạo?! Cùng một quan niệm về sứ mệnh thơ ca nói lên tâm trạng lòng người. Chùm thơ cho biết Nguyễn Trãi làm khi về ở ẩn đầy tâm trạng phiền não nên lấy trà làm phương cách giải khuây. Chắc được dùng trà trồng ở nhiều nơi nên trong “Dư địa chí” ông viết tại châu Sa Bôi Quảng Trị có loại trà lưỡi sẻ tước thiệt rất thơm ngon. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có ba lần nói về chè trà. Khi Kim Trọng tương tư “Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”. Khi Thúc Sinh mặn nồng với Kiều “Khi hương sớm, khi trà trưa/ Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn”. Kết thúc cuộc tình với Thúc Sinh, Kiều phải vào Quan Âm Các “áo xanh đổi lấy cà sa”, có hai thị nữ trông nom “Xuân, Thu cắt sẵn hai tên hương trà”. “Hương trà” có thể hiểu là dâng trà khi tụng kinh niệm Phật!? Như vậy “trà” cũng được Nguyễn Du coi như một nét thi pháp để miêu tả hoàn cảnh, phân tích tâm lý nhân vật. Trong cái hoàn cảnh, tâm trạng Kim Trọng “Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng” về “bóng hồng” Kiều thì “trà khan giọng tình” như thổn thức, dằn vặt, trăn trở, muốn nói ra mà không/ chưa nói được... là tuyệt hay! Trong “Vũ trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ 1768-1839 tả việc uống trà ở xứ Bắc thời Cảnh Hưng thật tốn kém “Các nhà quý tộc, công hầu, con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ. Có khi mua một bộ ấm chén phí tổn đến vài mươi lượng bạc…”. Đúng với tính chất ghi chép mà ông kể khá tỉ mỉ về đồ uống trà, như “chén uống chè cốt cho nhỏ mỏng, khi pha mới nổi hương vị. Vòi ấm thẳng thì nước không đọng, mặt dĩa phẳng thì đặt chén không nghiêng. Đế lò dầy mà lỗ thưa thì than lửa không bốc nóng quá. Lòng ấm siêu lồi lên và mỏng thì sức lửa dễ thấu, chóng sôi…” Lê Quý Đôn 1726-1784 có dịp vào Phú Xuân Huế mà tả cảnh uống trà “Binh lính cũng đều ngồi chiếu mây, có gối dựa. Bên cạnh đặt lư đồng, pha chè Tàu ngon để uống, dùng chén sứ bịt bạc, ống nhổ bằng thau” “Phủ Biên tạp lục”. Trong văn học hiện đại, người nói hay, nói kỹ nhất về trà là Nguyễn Tuân. Đúng với phong cách đi tìm cái đẹp ở những cái kỳ lạ, trong “Vang bóng một thời” nhà văn tả thú thưởng trà như là một nghệ thuật sống. Trước hết phải có ấm “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bột, thứ ba Mạnh Thần”. Đặt lên chậu nước, nếu ấm nổi thì đúng là của Tàu... Chiếc ấm chuẩn phải hình quả sung, màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Ấm hình quả sung hay quả đào... cũng không được to quá, chỉ như nắm tay trẻ lên năm, đủ ba chén nhỏ. Vì to, nhiều nước thì mất hơi chè. Thế nên “chè tam” là vậy, ba chén, ba người uống. Không như uống rượu rượu tứ bốn người “thù tạc” đủ vai. Hơn nữa uống chè ngồi ba, vì còn “một chỗ” là vị trí để bếp và ấm đun trà. Cụ Nguyễn Trãi viết “Say mùi đạo, chè ba chén” là vậy, vừa hết một ấm chè, và cũng vừa đủ. Uống nhiều thì không phải uống trà. Uống rượu thì hơi men bốc lên, có khi mặt đỏ phừng phừng. Càng say càng muốn uống. Uống trà thì hương trà chảy ngược vào trong, phải chậm rãi, nhẹ nhàng, tâm phải thanh, lòng phải tịnh. Uống từng chút một, không còn là uống nữa mà là “thưởng”, thưởng trà...!!! Chè ba chén...!!! Quan trọng thứ hai là nước để pha trà. Không được là nước máy. Phải là nước mưa hoặc nước giếng khơi. Hoặc cho thuyền nhỏ ra giữa sông to múc về đủ dùng. Tuyệt nhất là bằng nước sương đọng trên lá sen. Tờ mờ sáng chèo thuyền thúng ra hồ để gạn từng giọt sương lóng lánh như những giọt thủy ngân đọng trên lá. Có người còn cho trà vào cánh hoa sen ướp từ tối hôm trước... Nước pha trà đun khi nào nổi tăm mắt cua là được không được để nổi tăm mắt cá… Chất cổ điển trong văn Nguyễn Tuân là đủ cả cái “kỳ” và cái “xảo”. “Kỳ” là kỳ nhân người lạ, kỳ vật vật lạ, kỳ thú thú chơi lạ... “Xảo” là tinh tế, tinh xảo, công phu “Nghề chơi cũng lắm công phu”. Một nhân vật người ăn mày của Nguyễn Tuân hội đủ cái “kỳ” cái “xảo” này... Có một người ăn mày “cổ quái” toàn vào xin những nhà đại gia và cố giáp được mặt chủ nhân rồi có xin gì mới xin. Lần ấy đến xin nhà phú hộ giữa lúc chủ nhà cùng một vài khách đang ngồi dùng trà sớm. Chủ nhân hỏi hắn xin cơm thừa hay canh cặn. Hắn gãi tai, lễ phép xin chủ nhân cho được uống trà. Được phép, hắn xin muốn uống nguyên một ấm trà mới. Hắn giở cái bị ăn mày ra, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm… Bỗng chốc, từ thân phận ăn mày, người đó như trở thành một tiên ông vượt ra khỏi không gian, thời gian thực tại để đến nơi tiên giới. Người ta mới thấy đây đích thực là người sành trà, ung dung, tự tại, thong dong, khuôn mặt trong sáng thánh thiên như tiên như Phật, không chút bợn trần... Uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo mắt, chép môi đứng dậy, chắp tay và thưa “bình trà của ngài lẫn mùi trấu ở trong”. Hắn đi, cả nhà giật mình kinh sợ vì, ở lọ trà có đến mươi mảnh trấu... Lứa sau Nguyễn Tuân, nhà thơ Phùng Cung có mấy câu thơ để đời về trà “Quất mãi nước sôi/ Trà đau nát bã/ Không đổi giọng Tân Cương”. Tả trà nhưng ý nghĩa thì vượt ra ngoài hình tượng. Có thể hiểu con người ta nghệ sĩ phải như thứ trà ngon từng trải qua cái xót xa đau đớn ở đời nhưng vẫn giữ được bản lĩnh không đổi giọng mới có thể đóng góp cái hương vị riêng của mình!? Ngày nay khoa học dinh dưỡng cho biết trà xanh giúp sảng khoái, làm tăng sự tỉnh táo, giảm nguy cơ ung thư, giúp diệt khuẩn, cải thiện sức khỏe răng miệng... Người Nhật Bản xem trà là một thứ “đạo” trà đạo như là một nghệ thuật sống, một sinh hoạt văn hóa, một thú vui tao nhã, di dưỡng tinh thần, tu tâm dưỡng tính. Thậm chí còn coi như là một tôn giáo truyền dạy đạo lý răn dạy ý nghĩa ở đời và làm người! Một điều khoái hoạt vào loại nhất trong cuộc đời có nhiều vụn vặt của những đàn ông, đó là uống rượu. Đại thi hào của người Việt là cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến tuy tưng tửng đùa nhưng vẫn trân trọng ghi nhận. Một rượu một trà một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ảnh trắng đen sờn cũ cuối thế kỷ XIX, chụp cụ Nguyễn đang rưng rưng cầm trong tay một chén rượu nhỏ hạt mít, được rất nhiều nhiếp ảnh gia đương đại coi là mẫu mực của thể loại ảnh chân dung. Theo truyền ngôn, một nam danh sĩ ở thời Thịnh Đường bên Trung Quốc, chết vì uống rượu quá nhiều, trong một lúc hiếm hoi tỉnh cũng đã mạnh dạn đưa ra một list “tứ đại đô ping” cho giới mày râu. Tửu, Sắc, Yên, Đổ. Nôm na đại loại là, rượu chè, trai gái, hút hít, cờ bạc. Văn hoá bình dân tái công nhận điều này bằng thuật ngữ “tứ đổ tường". Và đương nhiên, trong cái sự sập nhà không cần bão ấy, rượu chiếm ngôi vị quán điều kha khá lạ lùng là trong giới văn nghệ sĩ khi tới lúc mệt mỏi tận cùng của văn chương, của sân khấu, của điện ảnh thì hay buông bút lui về cầm chén. Rồi cũng không hẳn vì mưu sinh, bỗng một ngày thanh thản náo nức mở tửu quán. Việc mở quán thường hay rơi vào văn sĩ hoặc nhạc sĩ. Quán của văn nhân rượu thì ngon nhưng đồ mồi thì dở. Quán của nhạc nhân hình như ngược lại, món nhắm không tệ nhưng rượu đôi khi rất tồi hôm rồi, nhiều người sành uống có được mời đến quán rượu của nhạc sĩ tha hương gốc HàNộiPhúQuang. Nhạc sĩ mớimở một tửu lầu ở giữa đoạn phố nhỏ chính lòng Thủ Đô. Không hiểu sao rượu và đồ uống đều đột ngột tuyệt ngon, có người lành và sành mồm cho rằng hôm đó là ngày khai quán.Đàn ông mà biết uống rượu thì từ xưa đến nay cũng không có nhiều, bởi rượu là thứ đờ uống tuyệt đối khó tính. Thể chất rượu tuy tinh thuần nhưng khí độ của nó lại nồng nàn đậm. Hoặc quá chén hoặc lỡ chén đều dễ xảy ra vô số lầm lỗi,có kẻ đa tình sau khi uống thì bị mất người yêu như nhân vật Hoàng trong tiểu thuyết "Cơ hội của Chúa”. Có bậc vương giả sau khi uống thì bị mất nước. Trần Hậu Chủ một ông vua bên Tàu là người như vậy. Ông này đa tài cái thiếu duy nhất là lài trị nước, là tác giả chưa bao giờ đạo nhạc của hai điệu khúc khét tiếng có ca từ gây sốc "Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa". Khi quân nhà Tuỳ áp sát kinh thành. Hậu Chủ vẫn bất cần cùng quần thần và mỹ nữ dâm dật bét nhè nốc rượu. Tuy nhiên, nếu phải so với HoằngQuan, vua nhà mạt Minh thì Trần Hậu Chủ chưa là cái đinh gì. Ông này chỉ hiếu tửu, khi thua trận bỏ Yên Kinh chạy loạn xuống phía Nam, buồn đờiphẫn chí liên miên uống liền tù tì 24/24. Trước khi mất vì viêm gan một căn bệnh rất đặc trưng của đám tửu đồ, nó độc đáo độc quyền độc vị y như cứ nhắc đến quan chức là hầu hết phải nhắc đến tham nhũng, vị tửu vương này để lại một cặp câu đáng gọi là tuyệt cú. “Vạn sự hà như bôi tại thủ. Bách niên kỷ kiến nguyệt đương đầu”. Một ba ten đờ hành nghề pha rượu ở Khách sạn năm sao thời nay đã hoang mang dịch. “Mọi sự sướng nhất, tay cầm chén. Mấy khi trăng chiếu đúng đỉnh đầu”. Rượu có hại như vậy nên trong thanh quy giới luật của rất nhiều tôn giáo đều có giới tửu. Giới này phải nghiêm ngặt giữ y như giới nhưng rượu cũng như mỹ nhân, thoạtnhìn lỗi thì lớn nhưng sâu xa thì hoàn toàn trinh bạch vô tội. Rượu giống đạo lý ở chỗ không rõ hình hài. Nó thiên biến vạn hoá lộ diện vào phong thái của người uống. Nhân cách mà thanh cao thì rượu thanh cao. Tư cách mà dung tục thì rượu dung tục. Không phải ngẫu nhiên trong sự cúng kính Trời Đất hoặc tế lễ tổ tiên thì rượu là thứ bắt buộc phải dùng. Hương rượu tuy nồng nhưng không ô trọc. Chấtrượu tuy đạm nhưng không bợn đầy. Uống đủ lượng rượu không những lời hay ý đẹp lâng lâng tràn ngập mà tâm can đột ngột tiêu sái chân thành cởi mở. Đáng nhẽ chỉ đọc một đoạn thi thì bỗng phừng phừng hứng chí ngâm hết cả một trường ca dài tới câu lục đây quý bà, quý cô thường lo lắng là đàn ông Việt đang uống rượu nhiều quá, nhưng chắc chắn họ sẽ lo hơn khi tất thảy chồng của họ, người tình của họ lũ lượt rủ nhau đi uống sữa.

một trà một rượu một đàn bà